Một ngôi nhà cổ độc đáo ở Bàu Súng, Hội An Tây

Thứ tư - 24/12/2025 04:06
Thanh Hà là một làng/xã được hình thành khá sớm, vào khoảng thế kỷ XVI. Toàn bộ diện tích làng Thanh Hà nay thuộc phường Hội An Tây, thành phố Đà Nẵng. Trải qua bom đạn khắc nghiệt của chiến tranh, nhiều nhà cổ trên địa bàn làng Thanh Hà xưa đã bị hư hại, nay dường như chỉ còn lưu lại một vài ngôi nhà ở Nam Diêu, Bàu Súng. Nhà ông Nguyễn Giàu ở tổ dân phố Bàu Súng là một trong số đó.
ngoi nha
Mặt tiền ngôi nhà  - Ảnh: Hoàng Phúc
 
     Về lịch sử, hiện nay không còn tư liệu để xác định thời điểm ngôi nhà được xây dựng. Theo thông tin hồi cố của ông Nguyễn (Văn) Giàu[1], ngôi nhà này do ông Thủ Mua (ông nội của ông Giàu) nhờ thợ mộc Kim Bồng dựng nên cách nay áng chừng trên 100 năm. Ngôi nhà này trước đây dùng để ở, về sau ông Nguyễn Giàu đã hiến cúng ngôi nhà mình thành nhà thờ chi 4 phái II tộc Nguyễn Văn, một tộc họ có lịch sử cư trú lâu đời ở Thanh Hà. Tại ngôi nhà vẫn đang lưu giữ một số tư liệu về gia phả của tộc Nguyễn Văn bằng chữ Hán Nôm và chữ quốc ngữ.

     Công trình toạ lạc trên cồn cát cao ở Bàu Súng, trong khuôn viên khá rộng rãi, mặt tiền xoay về hướng Đông Nam. Về bố cục tổng thể, nhà nằm giữa khu đất, không có tường rào, cổng ngõ. Trước nhà có khoảng sân đất trồng cau và cây kiểng, tiếp đến là khoảng sân lát gạch thẻ khá rộng. Qua khoảng sân này là đến nhà chính. Trước đây có nhà ngang, nằm bên trái nhà chính, tuy nhiên đã bị tháo dỡ, thay vào đó là nếp nhà mới. Bên phải nhà chính có chái bếp tạm xây gạch, nấu bằng củi. Phía sau nhà chính có ngôi mộ tổ. Bao quanh nhà là sân vườn trồng hoa màu.

     Về kiến trúc, nhà chính có dạng nhà 3 gian 2 chái, gian giữa rộng hơn hai gian bên một chút. Hệ khung chịu lực (cột, kèo, xiên, trính) bằng gỗ mít (thông tin do gia chủ cung cấp) có hình dáng khá thanh mảnh, tường bao che xây gạch và tô trát bằng vữa vôi (có bổ trụ gạch), nền láng xi măng (trước đây nền lát gạch thẻ, bị hư hỏng nên láng lại xi măng như hiện nay), mái lợp ngói âm dương. Cột lòng nhất, cột nhì tiền là cột tròn, trốn hai cột nhất tiền gian chính giữa, chân cột có đế đá táng. Hàng cột ngoài cùng (cột hàng ba) là cột vuông, chôn xuống nền nhà. Kèo có dạng kèo suốt (lòng ba – đoạn giữa cột nhì tiền và cột hàng ba không có kèo). Kèo, trính, xiên có hình thức đơn giản, xiên nằm cao hơn trính. Thân kèo trước (ở 3 gian giữa) có chạm khắc, đuôi kèo uốn cong nhẹ. Kèo sau, kèo đấm, kèo quyết không chạm trổ. Trên 2 trính có gác ván gỗ làm gác tạm. Ở hai hàng cột cái gian bên (tiếp giáp với chái) có vách phên lụa (giúp phân cách không gian thờ tự và không gian sinh hoạt), phía trên có các ô hộc gỗ (liên ba) khá đẹp. Bờ nóc, bờ chảy thẳng, riêng bờ chảy ở khu đĩ có uốn cong nhẹ. Nhà không có hiên, đuôi mái trước có lắp mái tôn che tạm tránh mưa tạt.

    Hình thức mặt tiền ngôi nhà này có sự kế thừa kiến trúc nhà tranh tre rất rõ nét. Cửa đi ở 3 gian trước đây là cửa phên liếp bằng tranh sen (dùng cây chống để chống lên, sụp xuống). Khi cửa tranh sen bị mục nát, thay bằng cửa tôn khung tre có hình thức tương tự. Tuy nhiên, sau này cửa tôn cũng đã hư hỏng, gia đình tháo dỡ luôn. Ngôi nhà để trống trơn, không có vách cửa mặt tiền. Ở phía hai bên chái là tường xây gạch. Tường mặt tiền gian chái có ô thoáng được ghép từ 4 viên gạch bông gió bằng đất nung với họa tiết rất đẹp. Loại gạch này ít được sử dụng phổ biến, hiện chỉ được tìm thấy ở một số ngôi mộ mang kiểu dáng kiến trúc Pháp (có niên đại nửa đầu thế kỷ XX) và một số rất ít di tích tín ngưỡng cũng trên địa bàn phường Hội An Tây. Chỉ nhìn vào mẫu gạch bông gió này thôi cũng phần nào giúp gợi nên sự xưa cũ của ngôi nhà.  

     Nhà trước đây không có hiên, cũng không cần hiên, do khi chống cửa chính lên, cửa che chắn một khoảng rộng trước nhà, tương tự như mái hiên. Khi cửa bị tháo dỡ, để hạn chế tác động của nắng mưa đến mặt tiền ngôi nhà, gia đình lắp dựng thêm phần mái hiên tôn.

     Về bố trí công năng, ba gian chính giữa là nơi thờ tự ông bà tổ tiên, nền được xây cao hơn một chút so với nền nhà để phân định không gian sử dụng (mang tính ước lệ). Bệ thờ xây gạch. Vách tường bao quanh các bàn thờ được tô vẽ nhiều đồ án trang trí truyền thống quen thuộc như: bộ tranh tứ thời, tùng - lộc, hoa – điểu, liên – áp, các đồ vật trong bộ bát bửu, hồi văn, dây lá... đều mang ý nghĩa cát tường. Nét vẽ giản dị, mộc mạc, màu sắc thanh nhã, không kém phần thẩm mỹ. Đây là các chi tiết trang trí nguyên gốc, từ xưa đến giờ chưa tô vẽ lại lần nào, dù bị phai mờ nhưng vẫn còn tương đối rõ nét. Phía trên xiên gian chính giữa ở lòng nhì hậu có khám thờ bằng gỗ kiểu khám thùng, sơn son (lâu ngày đã bị bạc màu), thờ Ngũ tự. Phần mày khám cũng được chú trọng chạm trổ trang trí, họa tiết khá đơn giản, hai bên là dây lá hóa rồng, chầu vào vòng xoáy lưỡng nghi ở chính giữa. Phần khung khám không có đồ án trang trí, thay vào đó là các chữ Hán được thếp vàng. Phía trên, chính giữa khung khám có các chữ: 致 中 和 (Trí trung hòa), bên trái là 誠 能 格 (Thành năng cách), bên phải là 德 惟 馨 (Đức duy hinh). Câu đối hai bên khung khám: 燭 摇 金 鳳 / 香 吐 玉 鱗 (Chúc diêu kim phượng / Hương thổ ngọc lân)[2]. Hai chữ bên dưới ở hai góc khám thờ (chân khám): 元 (Nguyên) và 亨 (Hanh)[3]. Không gian thờ tự tôn nghiêm, trang trí cầu kỳ, chứng tỏ việc thờ tự rất được coi trọng. Bên cạnh các ngày giỗ chạp ông bà tổ tiên thì gia đình vẫn thực hiện cúng kính vào các ngày rằm, mồng 1 hàng tháng (dù không thờ Phật).

 
noi that
Không gian nội thất thờ tự - Ảnh: Hoàng Phúc
 
     Trước bàn thờ gian chính giữa là bộ bàn ghế gỗ để tiếp khách, bên phải là bộ phản gỗ (trước đây bên trái cũng có phản gỗ, đã bị hư hỏng). Hai chái là kho cất giữ các vật dụng gia đình. Trước khi ngôi nhà trở thành nhà thờ tộc, ở hai chái có bố trí giường ngủ, làm nơi ngủ nghỉ.

    Theo thông tin từ ông Nguyễn Giàu, ngày trước, nhà có nhà ngang nằm phía bên trái, vuông góc với nhà chính, có dạng nhà 3 gian, chồm ra so với nhà chính 1 gian, tường bao xây gạch, hệ khung gỗ chịu lực (cột vuông), mái lợp tranh sen gồm 2 mái dốc (tường hồi quay ra đường). Sau này mái tranh bị mục, thay bằng ngói đất nung. Đây là nơi sinh hoạt của gia đình (bố trí giường ngủ, bếp). Hiện nay, nếp nhà này đã được thay thế bằng một ngôi nhà mới.

     Có thể nói, đây là ngôi nhà có kết cấu kiến trúc độc đáo, hiếm gặp ở Hội An, trốn hai cột nhất tiền ở gian giữa, là nhà rường nhưng không có vách cửa gỗ thượng song hạ bản ở mặt tiền như thường thấy, thay vào đó là hình thức cửa chống, yếu tố kế thừa kiến trúc nhà tranh tre khá rõ nét. Hiện trạng, ngôi nhà bị xuống cấp ở nhiều hạng mục làm suy giảm những giá trị nguyên gốc và ảnh hưởng đến sinh hoạt văn hoá tại di tích. Mong rằng, ngôi nhà sớm được quan tâm tu bổ để không chỉ gìn giữ lâu dài những giá trị kiến trúc, lịch sử của di tích mà còn bảo tồn những giá trị văn hoá truyền thống, góp phần phát triển kinh tế - xã hội địa phương.

Tài liệu tham khảo:
[1] Ông Nguyễn Giàu năm nay đã 92 tuổi.
[2] Tạm dịch nghĩa: Đèn khêu kim phụng/ Nhang nhả ngọc lân.
Có thể cặp câu đối này được rút gọn từ cặp câu đối sau: 燭 搖 虹 彩 儀 金 鳳 / 香 吐 青 煙 舞 玉 龍. Phiên âm: Chúc diêu hồng thải nghi kim phượng / Hương thổ thanh yên vũ ngọc long, tạm dịch: Ngọn đèn lay động sặc sỡ như kim phượng (con chim phượng bằng vàng) / Hương tỏa khói xanh cuộn lên như ngọc long (con rồng bằng ngọc). Chỉ tìm thấy bản Ngọc Long, ko có bản Ngọc Lân, tuy nhiên có thể do kị húy, vì rồng liên quan đến vua chúa nên nhà dân ko dám dùng, bèn đổi sang Ngọc Lân. Kim Phượng và Ngọc Long hay Ngọc Lân thì đều mang ý nghĩa cát tường, cao quý, bình an, phồn vinh thịnh vượng.
"Kim Phượng" ám chỉ loài phượng hoàng huyền thoại, là biểu tượng quan trọng trong văn hóa cổ đại, tượng trưng cho sự tốt lành, vẻ đẹp, sự cao quý và liên quan đến phụ nữ. "Ngọc Kỳ Lân" ám chỉ loài Kỳ Lân huyền thoại, là biểu tượng quan trọng trong văn hóa cổ đại, tượng trưng cho sự tốt lành, lòng tốt, tuổi thọ và liên quan đến nam giới và quyền lực.
[3] Nguyên hanh, trong “Nguyên hanh lợi trinh”, câu đầu của quẻ Càn, trong Kinh dịch. Theo Nguyễn Khuê dịch và chú giải (2024), Chu dịch chính nghĩa, Nxb Hồng Đức, tr. 37, thì: Càn [có bốn đức]: Đầu tiên, hanh thông, hài hòa, chính bền.
Ngô Tất Tố dịch: “Đầu cả, hanh thông, lợi tốt, chính bền”. Chữ “cả” mà họ Ngô dùng ở đây nghĩa là lớn. Phan Bội Châu dịch: “Nguyên nghĩa là đầu hết, cũng là lớn; Hanh nghĩa là thông thái, cũng là thuận tiện; Lị nghĩa là thỏa thích, tiện lợi, cũng là nên, là phải; Trinh nghĩa là chính, cũng là bền chặt cho đến cuối cùng”. Nguyển Duy Tinh dịch: “đức nguyên, đức hanh, đức lợi và đức trinh”. Nguyễn Hiến Lê dịch: “đầu tiên và lớn, hanh thông, thích đáng, chính và bền”.

Tác giả: Trần Thanh Hoàng Phúc

Nguồn tin: Trung tâm Bảo tồn Di sản Văn hóa Thế giới Hội An

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
liên kết web
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây